Logo
Unionpedia
Giao tiếp
Tải nội dung trên Google Play
Mới! Tải Unionpedia trên thiết bị Android™ của bạn!
Cài đặt
truy cập nhanh hơn trình duyệt!
 

Da Capo II và Visual novel

Phím tắt: Sự khác biệt, Điểm tương đồng, Jaccard Similarity Hệ số, Tài liệu tham khảo.

Sự khác biệt giữa Da Capo II và Visual novel

Da Capo II vs. Visual novel

là một visual novel dành cho người lớn được phát triển và phát hành lần đầu bởi Circus dưới dạng bản giới hạn DVD vào ngày 26 tháng 5 năm 2006 trên hệ PC; phiên bản chính thức phát hành tiếp sau đó vào ngày 23 tháng 6 năm 2006. là một loại tiểu thuyết tương tác, với tính năng rõ rệt nhất là đồ họa tĩnh, thường sử dụng phong cách nghệ thuật của anime hoặc đôi khi là ảnh thật (hay một số cảnh quay video).

Những điểm tương đồng giữa Da Capo II và Visual novel

Da Capo II và Visual novel có 12 điểm chung (trong Unionpedia): Anime, ASCII Media Works, Chính kịch, Circus, Dengeki G's Magazine, Eroge, Hentai, Kỳ ảo, Lãng mạn, Manga, PlayStation Portable, Tiếng Anh.

Anime

, là từ mượn của tiếng Anh, từ chữ animation có nghĩa là "phim hoạt hình"), chỉ các bộ phim hoạt hình sản xuất theo vẽ tay hoặc máy tính tại Nhật Bản với phong cách Nhật Bản. Từ này là cách phát âm rút ngắn của "animation" tại Nhật Bản, nơi thuật ngữ này được dùng để nói tới tất cả các bộ phim hoạt hình. Bên ngoài Nhật Bản, anime ám chỉ tính đặc trưng riêng biệt của hoạt hình Nhật Bản, hoặc như một phong cách hoạt hình phổ biến tại Nhật Bản mà thường được mô tả bởi đồ họa tràn đầy màu sắc, các nhân vật sống động và những chủ đề tuyệt vời. Có thể cho rằng, cách tiếp cận cách điệu hóa kết hợp các tầng ý nghĩa có thể mở ra khả năng anime được sản xuất tại các nước bên ngoài Nhật Bản. Một cách căn bản, đa số người phương Tây đã nghiêm túc coi anime như là một sản phẩm hoạt hình đến từ Nhật Bản. Một số học giả đề nghị định nghĩa anime như là nét đặc trưng hoặc sự tinh hoa Nhật Bản mà có thể liên quan đến một hình thái mới của chủ nghĩa Đông phương học. Hoạt hình Nhật Bản giao thương rất sớm từ năm 1917, và quá trình sản xuất các tác phẩm anime tại Nhật Bản kể từ đó vẫn tiếp tục tăng đều đặn. Phong cách nghệ thuật anime đặc trưng được nổi bật trong những năm 1960 với các tác phẩm của Tezuka Osamu, sau đó nhanh chóng lan rộng ra quốc tế trong những năm cuối thế kỷ XX, dần phát triển thành một lượng lớn khán giả người Nhật và quốc tế. Anime được phân phối tại các rạp chiếu phim, phát sóng qua hệ thống đài truyền hình, xem trực tiếp từ phương tiện truyền thông tại nhà và trên internet. Nó được phân loại thành nhiều thể loại hướng đến các mục đích đa dạng và những đối tượng khán giả thích hợp. Theo số liệu của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản vào tháng 1 năm 2004, anime chiếm khoảng 60% số lượng phim hoạt hình sản xuất trên toàn thế giới. Anime là hình thái nghệ thuật phong phú với các phương pháp sản xuất đặc biệt và nhiều kỹ thuật đã được cải tiến theo thời gian trong việc đáp ứng những công nghệ mới nổi. Nó bao gồm một thủ pháp kể chuyện về ý tưởng, kết hợp với nghệ thuật đồ họa, bản ngã nhân vật, kỹ thuật điện ảnh, các hình thái khác của sự sáng tạo và kỹ thuật mang tính chất chủ nghĩa cá nhân. Quá trình sản xuất anime tập trung ít hơn vào hoạt họa cử động mà quan tâm nhiều hơn đến cách xây dựng chủ nghĩa hiện thực, cũng như các hiệu ứng camera: bao gồm việc đảo máy, cách thu phóng và các góc quay. Khi được vẽ tay, anime được tách rời so với thực tế bởi một sự thu hút chủ yếu từ trí tưởng tượng, cung cấp một hướng đi về ý tưởng cho khuynh hướng thoát ly thực tế mà khán giả có thể dễ dàng chìm đắm bản thân vào bên trong với mối quan hệ không bị ràng buộc. Nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau đã được sử dụng cùng với các tỷ lệ nhân vật và những nét nổi bật có thể hoàn toàn được biến đổi, bao gồm các đặc trưng gây nhiều xúc động hoặc đôi mắt có kích thước thực tế. Ngành công nghiệp anime gồm hơn 430 xưởng phim gia công, bao gồm những cái tên chính như Studio Ghibli, Gainax và Toei Animation. Mặc dù chỉ là một phần nhỏ thuộc thị trường phim trong nước tại Nhật Bản nhưng anime lại chiếm một thị phần khá lớn doanh thu từ DVD và Blu-ray Nhật Bản. Nó cũng cho thấy sự thành công trên phương diện quốc tế sau sự trỗi dậy của các chương trình sản xuất tại Nhật Bản được lồng tiếng Anh. Sự gia tăng trên phương diện văn hóa đại chúng quốc tế này dẫn đến nhiều sản phẩm không phải của người Nhật sử dụng phong cách nghệ thuật anime, nhưng những tác phẩm này thường được mô tả như hoạt hình ảnh hưởng từ anime hơn là anime đúng nghĩa.

Anime và Da Capo II · Anime và Visual novel · Xem thêm »

ASCII Media Works

là một công ty xuất bản của Nhật Bản nằm trong khối Kadokawa Group, thành lập ngày 1 tháng 4 năm 2008 như là kết quả từ sự sáp nhập giữa ASCII và MediaWorks (MediaWorks chính thức mua lại ASCII).

ASCII Media Works và Da Capo II · ASCII Media Works và Visual novel · Xem thêm »

Chính kịch

Chính kịch là một thể loại nghệ thuật.

Chính kịch và Da Capo II · Chính kịch và Visual novel · Xem thêm »

Circus

Circus là một hãng sản xuất visual novel đặt trụ sở tại Hasuda, Saitama, Nhật Bản, cha đẻ của nhiều trò chơi thuộc thể loại eroge và bishōjo.

Circus và Da Capo II · Circus và Visual novel · Xem thêm »

Dengeki G's Magazine

là một tạp chí Nhật Bản ấn hành bởi ASCII Media Works (trước đây là MediaWorks) và phát hành đều đặn vào ngày thứ 30 hàng tháng, thông tin chủ yếu là về bishōjo game, nhưng cũng có một số trang dành cho anime dựa trên bishōjo games, đồng thời đăng manga và light novel cũng chuyển thể từ các trò chơi cùng loại.

Da Capo II và Dengeki G's Magazine · Dengeki G's Magazine và Visual novel · Xem thêm »

Eroge

là một dạng video hay trò chơi máy tính Nhật Bản có nội dung khiêu dâm, thường mang phong cách nghệ thuật của anime dưới dạng đồ họa tĩnh, 2D hay 3D.

Da Capo II và Eroge · Eroge và Visual novel · Xem thêm »

Hentai

Hentai (tiếng Nhật: へんたい; chữ Hán: 変態; phiên âm từ chữ Hán: "biến thái") là một từ tiếng Nhật dùng để ám chỉ truyện tranh, phim hoạt hình khiêu dâm của Nhật Bản.

Da Capo II và Hentai · Hentai và Visual novel · Xem thêm »

Kỳ ảo

Kỳ ảo là một thể loại văn học nghệ thuật trong đó phép thuật và các yếu tố siêu nhiên khác được sử dụng làm đề tài, cốt truyện hay bối cảnh.

Da Capo II và Kỳ ảo · Kỳ ảo và Visual novel · Xem thêm »

Lãng mạn

Lãng mạn là một thể loại văn học nghệ thuật thường được viết dưới dạng văn xuôi hay thơ, phổ biến trong thời kì Trung Cổ ở châu Âu.

Da Capo II và Lãng mạn · Lãng mạn và Visual novel · Xem thêm »

Manga

Manga (kanji: 漫画; hiragana: まんが; katakana: マンガ;; or) là một cụm từ trong tiếng Nhật để chỉ các loại truyện tranh và tranh biếm họa nói chung của các nước trên thế giới.

Da Capo II và Manga · Manga và Visual novel · Xem thêm »

PlayStation Portable

PlayStation Portable PlayStation Portable (viết tắt PSP) là một thiết bị giải trí cầm tay do Sony Computer Entertainment thiết kế và sản xuất, tung ra thị trường thế giới lần đầu tiên vào ngày 11 tháng 5 năm 2004.

Da Capo II và PlayStation Portable · PlayStation Portable và Visual novel · Xem thêm »

Tiếng Anh

Tiếng Anh (English) là một ngôn ngữ German Tây, được nói từ thời sơ kỳ Trung cổ tại Anh và nay là lingua franca toàn cầu.

Da Capo II và Tiếng Anh · Tiếng Anh và Visual novel · Xem thêm »

Danh sách trên trả lời các câu hỏi sau

So sánh giữa Da Capo II và Visual novel

Da Capo II có 23 mối quan hệ, trong khi Visual novel có 113. Khi họ có chung 12, chỉ số Jaccard là 8.82% = 12 / (23 + 113).

Tài liệu tham khảo

Bài viết này cho thấy mối quan hệ giữa Da Capo II và Visual novel. Để truy cập mỗi bài viết mà từ đó các thông tin được trích xuất, vui lòng truy cập:

Chào! Chúng tôi đang ở trên Facebook bây giờ! »